Giảo cổ lam là gì? Các công bố khoa học về Giảo cổ lam
Giảo cổ lam là một loài cây thuộc họ Giảo cổ (Indigofera), phân bố rộng rãi ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới trên khắp thế giới. Giảo cổ lam có thân thảo, ...
Giảo cổ lam là một loài cây thuộc họ Giảo cổ (Indigofera), phân bố rộng rãi ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới trên khắp thế giới. Giảo cổ lam có thân thảo, lá kép hoặc lá mọc đối, và hoa màu hồng, tím hoặc đỏ. Trong y học cổ truyền, cây giảo cổ lam được sử dụng để điều trị các bệnh viêm khớp, đau nhức xương khớp và tiêu chảy. Ngoài ra, các phần của cây cũng được sử dụng trong công nghiệp dệt nhuộm để tạo ra màu xanh lam.
Giảo cổ lam (Indigofera tinctoria) là một loại cây thường được trồng để thu hoạch làm nhuộm màu xanh lam, được sử dụng trong lĩnh vực dệt nhuộm từ hàng ngàn năm trước đây. Cây giảo cổ lam có tên gọi khác như indigo, cây nhuộm indigo, hay cây tím.
Cây giảo cổ lam có thế, thân thảo, thạch thạch với lẻ hoặc lục lạc, cao từ 1-2 mét. Lá của cây có cấu trúc lá kép, với các lá nhỏ gắp nhau, màu xanh tươi. Hoa cây giảo cổ lam có màu hồng tím, mọc thành chùy, và có mùi hương nhẹ. Quả của cây là hòn nhỏ, chứa một số hạt nhỏ màu đen.
Cả cây giảo cổ lam đều có khả năng chứa một chất nhuộm mạnh gọi là indigo. Chất nhuộm này có khả năng tạo ra màu xanh lam nổi tiếng. Quá trình nhuộm lại khá phức tạp và đòi hỏi nhiều bước xử lý.
Trong y học cổ truyền, giảo cổ lam đã được sử dụng trong việc điều trị các bệnh viêm khớp và đau nhức xương khớp. Các phần của cây, bao gồm lá, rễ và vỏ cây cũng đã được sử dụng như một thuốc truyền thống để điều trị các vấn đề sức khỏe khác nhau, bao gồm tiêu chảy, bệnh da, và cảm lạnh.
Tuy nhiên, trước khi sử dụng cây giảo cổ lam hoặc sản phẩm từ cây này cho mục đích y tế, nên tìm kiếm lời khuyên từ chuyên gia y tế và đảm bảo tuân thủ các quy định và hướng dẫn của cơ quan y tế địa phương.
Giảo cổ lam (Indigofera tinctoria) là một loài cây thân thảo thuộc họ Đậu (Fabaceae), xuất hiện phổ biến ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới trên khắp thế giới. Đây là một loại cây có ảnh hưởng lớn trong lĩnh vực nhuộm màu, với khả năng sản xuất chất nhuộm indigo mạnh mẽ.
Cây giảo cổ lam có thân thảo, cao từ 1-2 mét, với nhánh mảnh và lá mọc đối. Lá cây có cấu trúc lá kép, với 9-15 chiếc lá nhỏ xếp chặt lại với nhau. Mặt trên của lá có màu xanh tươi sáng, trong khi mặt dưới có màu xám nhạt. Hoa cây giảo cổ lam mọc thành chùy dài từ 5-15cm, với các hoa nhỏ màu tím hồng nhạt. Quả của cây là hòn nhỏ, chứa hạt nhỏ màu đen.
Cây giảo cổ lam được trồng để sản xuất chất nhuộm indigo. Quá trình sản xuất indigo từ cây này bao gồm các bước như thu hoạch, sấy khô lá, lên men để chiết xuất chất nhuộm, và sau đó tạo thành dạng bột hoặc dạng bánh để sử dụng trong quá trình nhuộm vải.
Chất nhuộm indigo có khả năng tạo ra màu xanh lam đậm, là một trong những chất nhuộm tự nhiên phổ biến nhất trên thế giới. Indigo đã được sử dụng từ hàng ngàn năm trước đây trong nghệ thuật dệt nhuộm, và cho đến ngày nay, còn được sử dụng rộng rãi trong ngành dệt và thời trang.
Ngoài việc sử dụng trong lĩnh vực nhuộm, giảo cổ lam cũng có giá trị trong y học cổ truyền. Trong một số hệ thống truyền thống, cây giảo cổ lam được sử dụng để điều trị các vấn đề sức khỏe như viêm khớp, viêm xoang, tiêu chảy, rối loạn tiêu hóa, chứng nhức mỏi, và các vấn đề về da.
Tuy nhiên, nên lưu ý rằng việc sử dụng cây giảo cổ lam cho mục đích y tế cần được hỗ trợ bằng các nghiên cứu khoa học và tuân thủ các quy định y tế địa phương. Trước khi sử dụng cây này hoặc sản phẩm từ cây làm thuốc, nên tìm kiếm sự tư vấn từ chuyên gia y tế.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "giảo cổ lam":
Nghiên cứu trí tuệ nhân tạo (AI) trong chăm sóc sức khỏe đang tăng tốc nhanh chóng, với các ứng dụng tiềm năng được minh chứng trong nhiều lĩnh vực y học. Tuy nhiên, hiện nay chỉ có một số ít ví dụ thành công về những kỹ thuật này được triển khai vào thực tiễn lâm sàng. Bài báo này khám phá những thách thức và hạn chế chính của AI trong chăm sóc sức khỏe và xem xét các bước cần thiết để chuyển đổi các công nghệ có thể biến đổi này từ nghiên cứu sang thực tế lâm sàng.
Những thách thức chính cho việc chuyển giao các hệ thống AI trong chăm sóc sức khỏe bao gồm những thách thức nội tại của khoa học học máy, khó khăn về mặt logistics trong việc thực hiện và cân nhắc đến rào cản áp dụng cũng như những thay đổi cần thiết về văn hóa xã hội hay quy trình. Đánh giá lâm sàng chặt chẽ qua các thử nghiệm ngẫu nhiên đối chứng nên được xem là tiêu chuẩn vàng để tạo ra bằng chứng, nhưng thực hiện những điều này trong thực tế có thể không phải lúc nào cũng phù hợp hoặc khả thi. Các chỉ số hiệu suất nên nhằm mục tiêu nắm bắt được tính ứng dụng lâm sàng thực sự và dễ hiểu đối với người dùng dự kiến. Quy định cân bằng giữa tốc độ đổi mới và khả năng gây hại cùng với sự giám sát sau thị trường chu đáo là rất cần thiết để đảm bảo rằng bệnh nhân không bị phơi nhiễm với các can thiệp nguy hiểm cũng như không bị thiếu cơ hội tiếp cận với các đổi mới có lợi. Cần phát triển các cơ chế để so sánh trực tiếp các hệ thống AI, bao gồm sử dụng các bộ thử nghiệm độc lập, địa phương và đại diện. Các nhà phát triển thuật toán AI cần phải cảnh giác với các nguy cơ tiềm ẩn, bao gồm sự thay đổi trong tập dữ liệu, việc vô tình gán khớp những yếu tố gây nhiễu, sự thiên vị phân biệt không mong muốn, thách thức của sự tổng quát hóa cho các dân số mới, và các hậu quả tiêu cực không mong muốn của các thuật toán mới đối với kết quả sức khỏe.
Việc chuyển đổi an toàn và kịp thời từ nghiên cứu AI sang các hệ thống đã được xác nhận lâm sàng và điều tiết một cách thích hợp, có thể mang lại lợi ích cho mọi người, đang đối mặt với nhiều thách thức. Đánh giá lâm sàng mạnh mẽ, sử dụng các chỉ số dễ dàng tiếp cận với các bác sĩ lâm sàng và lý tưởng vượt ra ngoài các biện pháp để bao gồm chất lượng chăm sóc và kết quả của bệnh nhân, là rất cần thiết. Cần thực hiện thêm công việc để (1) xác định các chủ đề về thiên vị và thiếu công bằng trong thuật toán trong khi phát triển các giải pháp để giải quyết chúng, (2) giảm sự mỏng manh và cải thiện khả năng tổng quát hóa, và (3) phát triển các phương pháp cải tiến khả năng giải thích của dự đoán học máy. Nếu đạt được những mục tiêu này, lợi ích cho bệnh nhân chắc chắn sẽ mang tính cách mạng.
Ba mươi năm qua đã chứng kiến sự xuất hiện và mở rộng nhanh chóng của ngân hàng Hồi giáo cả trong và ngoài thế giới Hồi giáo. Các ngân hàng Hồi giáo cung cấp các sản phẩm tài chính không vi phạm
Việc chăm sóc từ quan điểm của Hồi giáo không được trình bày nhiều trong văn liệu điều dưỡng mang tính châu Âu. Có sự hiểu lầm phổ biến về khái niệm và thực hành Hồi giáo trong bối cảnh chăm sóc sức khỏe và thực hành điều dưỡng. Các khu vực tranh luận, trong bối cảnh các hệ thống chăm sóc sức khỏe, là liệu các mô hình chăm sóc và quản lý điều dưỡng phương Tây có áp dụng được cho các tín đồ Hồi giáo và không phải Hồi giáo trong cả hai quốc gia Hồi giáo và không phải Hồi giáo. Điều thiếu sót trong một số mô hình và khung lý thuyết chăm sóc không chỉ là thành phần tinh thần cơ bản của sự chăm sóc mà còn là tầm quan trọng của sự phát triển tinh thần của cá nhân hướng tới việc chữa lành. Tập trung chính của bài báo này là tạo ra một nhận thức về các thực hành y tế Hồi giáo, các hành vi sức khỏe, quy tắc đạo đức và khung quan điểm của Hồi giáo về việc chăm sóc và tâm linh. Một cái nhìn tổng quát về thế giới Hồi giáo, sự phát triển lịch sử trong việc chăm sóc và y tế và những trụ cột của đức tin Hồi giáo cung cấp bối cảnh cho bài báo. Đề xuất một mô hình chăm sóc dựa trên quan điểm của Hồi giáo được đưa ra.
Nghiên cứu này nhằm điều tra ý định hành vi và sự áp dụng ngân hàng trực tuyến (IB) trong số các khách hàng của các ngân hàng Hồi giáo trong nước và nước ngoài tại Malaysia.
Phiếu khảo sát được phân phối trong số các khách hàng của các ngân hàng Hồi giáo tại hai bang chính, cụ thể là Kuala Lumpur và Selangor. Số lượng khách hàng tham gia là 319 (
Phân tích PLS thông minh đưa ra ba kết quả chính, cụ thể là các biến như kỳ vọng hiệu suất, kỳ vọng nỗ lực, giá trị giá, điều kiện hỗ trợ và thói quen có ảnh hưởng tích cực đối với ý định hành vi và dẫn đến sự áp dụng IB. Hai biến khác, cụ thể là ảnh hưởng xã hội và động lực thích ứng có liên quan tiêu cực và không có ý nghĩa đối với ý định hành vi. Thứ ba, bài báo này cũng nhận thấy rằng điều kiện hỗ trợ và thói quen có sự liên kết trực tiếp với việc áp dụng IB.
Dựa trên kết quả, các ngân hàng Hồi giáo có thể thực hiện các biện pháp cần thiết để thiết kế một chính sách tốt hơn để thúc đẩy hơn nữa việc sử dụng IB trong số khách hàng của họ. Bằng cách xác định những yếu tố đó, điều này, có lẽ, có thể cho phép các ngân hàng Hồi giáo đầu tư thêm ý tưởng vào những yếu tố quan trọng đó ảnh hưởng đến sự quan tâm của họ, và sau đó dẫn đến việc kinh doanh tốt cho các ngân hàng Hồi giáo khi khách hàng ngày nay đang tìm kiếm các yếu tố đơn giản và tiện lợi khi sử dụng IB.
Nghiên cứu này được kỳ vọng sẽ tăng cường tài liệu hiện có về ngân hàng trực tuyến, đặc biệt là trong nghiên cứu ngân hàng Hồi giáo về công nghệ tiên tiến. Nghiên cứu hạn chế đã được thực hiện trong Malaysia, đặc biệt về ý định và việc áp dụng liên tục của IB trong các ngân hàng Hồi giáo sử dụng khung UTAUT2. Điều này sẽ là nghiên cứu đột phá trong việc xác định các yếu tố ảnh hưởng đến việc áp dụng liên tục của khách hàng đối với IB.
Giáo dục y khoa dựa trên năng lực (CBME) đang được triển khai trên toàn thế giới. Trong CBME, chương trình thực tập được thiết kế xung quanh các năng lực cần có cho thực hành độc lập và sử dụng các hoạt động nghề nghiệp đáng được tin tưởng (EPAs) như là "đơn vị đánh giá" tại nơi làm việc. Các công cụ đánh giá tại nơi làm việc (WBA) được thiết kế tốt là cần thiết để ghi lại năng lực của các thực tập sinh trong các môi trường lâm sàng thực tế. Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã phát triển một công cụ WBA để đánh giá hiệu suất của các bác sĩ thực tập trong các cuộc tham vấn mô bệnh lý trong phẫu thuật và tiến hành một cuộc điều tra về tính hợp lệ. Công cụ đánh giá mô bệnh lý theo định hướng giao phó dành cho các cuộc tham vấn trong phẫu thuật (EPA-IC) được phát triển thông qua một cuộc tham vấn lặp đi lặp lại trên toàn quốc và sử dụng các giám sát lâm sàng để đánh giá hiệu suất của các bác sĩ thực tập tại một chương trình mô bệnh lý. Những phân tích tâm lý học và các nhóm tập trung đã được thực hiện để khám phá các nguồn chứng cứ dựa trên lý thuyết về tính hợp lệ hiện đại: nội dung, quy trình phản hồi, cấu trúc nội bộ, mối quan hệ với các biến khác và hậu quả của việc đánh giá. Nội dung được coi là phù hợp, việc đánh giá là khả thi và được thực tập sinh và giám sát chấp nhận, và nó có ảnh hưởng giáo dục tích cực bằng cách cải thiện hiệu suất các cuộc tham vấn trong phẫu thuật và phản hồi cho người học. Kết quả có độ tin cậy thấp, dường như liên quan đến thiên lệch đánh giá, và các giám sát viên do dự khi hoàn toàn giao phó cho thực tập sinh vì các vấn đề văn hóa. Với việc triển khai CBME, cần có các công cụ đánh giá dựa trên nơi làm việc mới trong lĩnh vực mô bệnh lý. Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã giới thiệu phát triển công cụ đầu tiên để đánh giá hiệu suất của các bác sĩ thực tập trong một hoạt động nghề nghiệp đáng được tin cậy kiểu mẫu trong mô bệnh lý sử dụng nguyên tắc giáo dục hiện đại và lý thuyết tính hợp lệ.
Mục tiêu của nghiên cứu hiện tại là đánh giá các lớp rủi ro theo một hệ thống đã được thiết lập trước đó để phân loại rủi ro liên quan đến tiền sử bệnh và các bệnh lý răng miệng trong một nhóm bệnh nhân tham gia khóa học sinh viên nha khoa để thực hiện các biện pháp phòng ngừa nha khoa.
Các bệnh nhân tham gia khóa học sinh viên từ tháng 4 năm 2020 đến tháng 12 năm 2021 đã được đưa vào nghiên cứu. Để đánh giá tiền sử bệnh, một công cụ tiền sử chuyên biệt đã được sử dụng, bao gồm việc phân loại các rủi ro liên quan đến tiền sử khác nhau phát sinh từ các bệnh lý tổng quát, thuốc men hoặc yếu tố lối sống thành các mức độ rủi ro thấp, vừa phải hoặc cao liên quan đến các biến chứng và/hoặc các bệnh lý răng miệng. Do đó, rủi ro biến chứng được định nghĩa là khả năng gia tăng tổn hại trong quá trình thực hiện các biện pháp nha khoa (làm sạch răng chuyên nghiệp, điều trị nha khoa xâm lấn hoặc bất kỳ can thiệp nào có thể gây ra tình trạng nhiễm khuẩn huyết), chẳng hạn như viêm nội tâm mạc do nhiễm trùng. Mặt khác, rủi ro của các bệnh lý răng miệng là khả năng gia tăng phát triển và/hoặc tiến triển của các bệnh lý răng miệng như sâu răng, viêm quanh răng hoặc các bệnh lý niêm mạc. Những lớp rủi ro đó sau đó đã được phân tích với sự cân nhắc về độ tuổi và giới tính của bệnh nhân.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5